[Phương pháp] - Dựa vào quy luật tự nhiên biện chứng ngũ hành
By Nhà Phù Thủy →
Thứ Năm, tháng 1 17, 2019
6000 năm trước đây, các nhà y học Ai Cập đưa ra ý kiến. Tim sản sinh ra tư duy. 4000 năm trước đây các học giả Babilon đã đưa ra ý kiến: Gan sản sinh ra tư duy. Lý luận y học phương Đông cho rằng:
- Tâm chủ thần minh (tim làm chủ thì tinh thần minh mẫn)
- Gan làm chủ phát ra buồn giận
- Thận ẩn tinh thần
- Mệnh môn là nguồn vô khí
- Phổi là chủ của tiêu và giáng xuống.
- Tỳ thăng: thanh nhàn, không ô trọc
- Ăn không tốt là do ngủ không yên
Tất cả đều có liên quan đến tư duy.
Ngũ hành biện chứng là sự khái quát quy luật tự nhiên của người phương Đông cổ, chủ yếu là ở Trung Hoa, đến nay vẫn được sử dụng rộng rãi.
Người ta dùng 7 trạng thái tâm lý: Hỷ, nộ, ưu, tư, bi, khủng, kinh theo nguyên tắc:
- Dùng tư bỏ ưu
- Dùng khủng bỏ kinh
Trong 5 loại trạng thái tâm lý: nộ, hỷ, tư, bi, khủng thì nộ, hỷ, tư là 3 loại tình cảm yếu.
Lạc cực sinh bi: nói rõ quan hệ cua vui, giận với buồn, sợ
Sợ và buồn là tình cảm xấu, rất bất lợi cho sự cân bằng tâm lý.
Gặp điều bi thương, nếu kéo dài thì sẽ suy yếu, đau đớn, phải tìm ra nguồn gốc để hòa giải.
Phải dùng giận vui, suy nghĩ để trừ bỏ sợ và buồn, giữ cân bằng tâm lý.
Trong ba loại trạng thái tâm lý giận, vui và suy nghĩ thì suy nghĩ là quan trọng nhất.
Vui là trong âm có âm.
Giận là trong dương có dương.
Vui – giận là một cặp mâu thuẫn, cũng là tình cảm chủ yếu của con người. Sách Hoàng đế nội kinh viết: “ Dương binh âm bí, tinh thân nãi trị” (dương bình thường âm bế tắc, phải chữa trị tinh thần). Bảy thứ tình cảm của con người không thể nào chia cắt được. Phải tự mình hoàn thiện, nhớ lại hôm qua, nhiệt tình với hôm nay, nhìn ngày mai đầy triển vọng.
- Tâm chủ thần minh (tim làm chủ thì tinh thần minh mẫn)
- Gan làm chủ phát ra buồn giận
- Thận ẩn tinh thần
- Mệnh môn là nguồn vô khí
- Phổi là chủ của tiêu và giáng xuống.
- Tỳ thăng: thanh nhàn, không ô trọc
- Ăn không tốt là do ngủ không yên
Tất cả đều có liên quan đến tư duy.
Ngũ hành biện chứng là sự khái quát quy luật tự nhiên của người phương Đông cổ, chủ yếu là ở Trung Hoa, đến nay vẫn được sử dụng rộng rãi.
Người ta dùng 7 trạng thái tâm lý: Hỷ, nộ, ưu, tư, bi, khủng, kinh theo nguyên tắc:
- Dùng tư bỏ ưu
- Dùng khủng bỏ kinh
Trong 5 loại trạng thái tâm lý: nộ, hỷ, tư, bi, khủng thì nộ, hỷ, tư là 3 loại tình cảm yếu.
Lạc cực sinh bi: nói rõ quan hệ cua vui, giận với buồn, sợ
Sợ và buồn là tình cảm xấu, rất bất lợi cho sự cân bằng tâm lý.
Gặp điều bi thương, nếu kéo dài thì sẽ suy yếu, đau đớn, phải tìm ra nguồn gốc để hòa giải.
Phải dùng giận vui, suy nghĩ để trừ bỏ sợ và buồn, giữ cân bằng tâm lý.
Trong ba loại trạng thái tâm lý giận, vui và suy nghĩ thì suy nghĩ là quan trọng nhất.
Vui là trong âm có âm.
Giận là trong dương có dương.
Vui – giận là một cặp mâu thuẫn, cũng là tình cảm chủ yếu của con người. Sách Hoàng đế nội kinh viết: “ Dương binh âm bí, tinh thân nãi trị” (dương bình thường âm bế tắc, phải chữa trị tinh thần). Bảy thứ tình cảm của con người không thể nào chia cắt được. Phải tự mình hoàn thiện, nhớ lại hôm qua, nhiệt tình với hôm nay, nhìn ngày mai đầy triển vọng.